Trong bài viết dưới đây, Huanluyenantoanlaodong sẽ cung cấp cho bạn đọc những thông tin liên quan đến Vai Trò Của Triết Học Đối Với Sinh Viên. Mời bạn đọc cùng theo dõi!
Triết học là gì? Vai Trò Của Triết Học Đối Với Sinh Viên
Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ. Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
“Triết học” trong tiếng Anh là “philosophy” xuất phát từ tiếng Hy Lạp cổ đại φιλοσοφία (philosophia), có nghĩa là “tình yêu đối với sự thông thái”. Sự ra đời của các thuật ngữ “triết học” và “triết gia” được gắn với nhà tư tưởng Hy Lạp Pythagoras.
Một “nhà triết học” được hiểu theo nghĩa tương phản với một “kẻ ngụy biện”. Những “kẻ ngụy biện” hay “những người nghĩ mình thông thái” có một vị trí quan trọng trong Hy Lạp cổ điển, được coi như những nhà giáo, thường đi khắp nơi thuyết giảng về triết lý, nghệ thuật hùng biện và các bộ môn khác cho những người có tiền, trong khi các “triết gia” là “những người yêu thích sự thông thái” và do đó không sử dụng sự thông thái của mình với mục đích chính là kiếm tiền.
Thời kỳ triết học Hy lạp cổ đại, năm vấn đề cơ bản trên tương ứng với năm nhánh của triết học là siêu hình học, lôgic, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Tuy nhiên đối tượng của triết học còn mở rộng đến chính trị học, vật lý học, địa chất học, sinh học, khí tượng học, và thiên văn học. Bắt đầu từ Socrates, các nhà triết học Hy Lạp đã phát triển triết học theo hướng phân tích, tức là, phân chia vật thể thành các thành phần nhỏ hơn để nghiên cứu. Triết học cổ Hy Lạp thường được coi là cơ sở của triết học phương Tây.
Các nền triết học khác không phải luôn luôn phân chia, hoặc nghiên cứu theo cách của người Hy Lạp. Triết học Ấn Độ có nhiều điểm tương tự như triết học phương Tây. Trước thế kỷ thứ 19, trong ngôn ngữ của các nước như Nhật Bản, Hàn Quốc hoặc Trung Quốc, không có từ “triết học” mặc dù nền triết học của các nước này đã phát triển từ lâu rồi.
Đặc biệt là các nhà triết học Trung Hoa sử dụng các phạm trù hoàn toàn khác người Hy Lạp. Các định nghĩa không dựa trên các đặc điểm chung mà thường có tính ẩn dụ và để chỉ một vài đối tượng cùng một lúc. Biên giới giữa các phạm trù không rõ ràng như trong triết học phương Tây.
Đối tượng nghiên cứu của Triết học
Như chúng ta đã biết thì trong triết học xuất hiện các đối tượng nghiên cứu của triết học thay đổi trong chu trình lịch sử. Mỗi giai đoạn lịch sử, do điều kiện kinh tế – xã hội và sự phát triển của khoa học tự nhiên, đối tượng nghiên cứu của triết học có những nội dung cụ thể khác nhau, nhưng vẫn xoay quanh vấn đề quan hệ giữa con người và thế giới khách quan bên ngoài, giữa tư duy và tồn tại.
Cụ thể hơn đối với lý luận này thì đối tượng nghiên cứu của triết học tiếp tục giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật; nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy, từ đó định hướng cho hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn của con người
Sau đây chúng tôi sẽ trình bày cụ thể về đối tượng nghiên cứu của Triết học trong từng thời kì, cụ thể như sau:
+ Ngay từ khi mới ra đời:
Dựa trên thực tiễn sự tồn tại của nó thì triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức, và triết học tồn tại bao hàm trong nó tri thức về tất cả các lĩnh vực không có đối tượng riêng. Quan điểm này nguyên nhân sâu xa làm nảy sinh quan niệm cho rằng, triết học là khoa học của mọi khoa học, đặc biệt là ở triết học tự nhiên của Hy Lạp cổ đại.
Sự tồn tại của triết học mang ý nghĩa rất lớn nhất là đối với thời kì này thì triết học đã đạt được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm đối với sự phát triển của tư tưởng triết học ở Tây Âu.
+ Thời kỳ trung cổ:
Ở Tây Âu khi quyền lực của Giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội thì triết học trở thành nô lệ của thần học.
+ Vào Thế kỷ XV, XVI:
Tại thời điểm này thì triết học lại tiếp tục những tư duy mới và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào thế kỷ XV, XVI đã tạo một cơ sở tri thức vững chắc cho sự phục hưng triết học. Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, đặc biệt yêu cầu của sản xuất công nghiệp, các bộ môn khoa học chuyên ngành nhất là các khoa học thực nghiệm đã ra đời với tính cách là những khoa học độc lập.
+ Thế kỷ XVII – XVIII:
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm đã phát triển nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong chủ nghĩa duy vật thế kỷ XVII – XVIII ở Anh, Pháp, Hà Lan, với những đại biểu tiêu biểu như Ph.Bêcơn, T.Hốpxơ (Anh), Điđrô, Henvêtiuýt (Pháp), Xpinôda (Hà Lan)…
V.I.Lênin đặc biệt đánh giá cao công lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy vật trong lịch sử triết học trước Mác.
“ Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu Âu và nhất là vào cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ phong kiến trong các thiết chế và tư tưởng, chỉ có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch với mê tín, với thói đạo đức giả, v.v.”
Mặt khác, tư duy triết học cũng được phát triển trong các học thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hêghen, đại biểu xuất sắc của triết học cổ điển Đức.
Sự phát triển của các bộ môn khoa học độc lập chuyên ngành cũng từng bước làm phá sản tham vọng của triết học muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học”. Triết học Hêghen là học thuyết triết học cuối cùng mang tham vọng đó.
Hêghen tự coi triết học của mình là một hệ thống phổ biến của sự nhận thức, trong đó những ngành khoa học riêng biệt chỉ là những mắt khâu phụ thuộc vào triết học.
+ Đầu thế kỷ XIX:
Có thể thấy ở thời gian này thì có rất nhiều thay đổi cụ thể về hoàn cảnh kinh tế – xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học vào đầu thế kỷ XIX đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác. Đoạn tuyệt triệt để với quan niệm “khoa học của các khoa học”, triết học mácxít xác định đối tượng nghiên cứu của mình là tiếp tục giải quyết mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Vai Trò Của Triết Học Đối Với Sinh Viên
Triết học có vai trò rất quan trọng đối với sinh viên, bởi vì nó giúp sinh viên:
- Phát triển kỹ năng tư duy logic, phân tích và lập luận.
Triết học đòi hỏi sinh viên phải rõ ràng, chính xác và thuyết phục trong việc đưa ra và bình luận các quan điểm, lập luận và bằng chứng. Sinh viên sẽ được rèn luyện kỹ năng tư duy logic qua việc học các nguyên tắc suy luận, các loại lỗi logic và các phương pháp kiểm tra tính hợp lý của các lập luận. Kỹ năng này không chỉ có ích cho việc học tập, mà còn cho việc giao tiếp, thuyết trình và giải quyết vấn đề trong cuộc sống.
- Mở rộng kiến thức và hiểu biết về thế giới và con người.
Triết học không giới hạn trong một lĩnh vực hay một quốc gia nào, mà bao quát các vấn đề liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau, như khoa học, văn hóa, xã hội, chính trị và tôn giáo. Sinh viên sẽ được tiếp xúc với các ý tưởng, lý thuyết và quan điểm của nhiều triết gia nổi tiếng từ các thời kỳ và các nền văn hóa khác nhau. Sinh viên sẽ được mở mang tầm nhìn và hiểu biết về thế giới và con người qua việc so sánh và đánh giá các ý tưởng triết học.
- Nâng cao phẩm chất đạo đức và nhân cách.
Triết học không chỉ là một môn học lý thuyết, mà còn là một môn học thực hành. Triết học khuyến khích sinh viên phải tự suy nghĩ, tự quyết định và tự chịu trách nhiệm cho những gì mình nghĩ, nói và làm. Sinh viên sẽ được rèn luyện phẩm chất đạo đức và nhân cách qua việc học các khái niệm, nguyên tắc và lý do của đạo đức.
Sinh viên sẽ được trang bị các công cụ để phân biệt đúng sai, tốt xấu và công bằng bất công trong cuộc sống.
Trên đây là những thông tin về Vai Trò Của Triết Học Đối Với Sinh Viên. Có thể thấy, Triết học là một lĩnh vực nghiên cứu rất quan trọng và có ích cho sinh viên. Triết học giúp sinh viên phát triển kỹ năng tư duy logic, phân tích và lập luận; mở rộng kiến thức và hiểu biết về thế giới và con người; nâng cao phẩm chất đạo đức và nhân cách. Huanluyenantoanlaodong hi vọng bài viết này hữu ích với bạn!